Thứ sáu, 26/04/2024 - 19:49
  

BÁO CÁO CHÍNH TRỊ

của Ban Chấp hành Hội LHPN tỉnh lần thứ II tại

Đại hội đại biểu Phụ nữ tỉnh Đắk Nông lần thứ III, nhiệm kỳ 2016-2021

 
   

 

Đại hội đại biểu phụ nữ tỉnh Đắk Nông lần thứ III, nhiệm kỳ 2016-2021 diễn ra trong bối cảnh Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc tỉnh triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII và năm thứ hai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XI. Sau 30 năm đổi mới, 25 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tỉnh Đăk Nông đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực đời sống xã hội. Đặc biệt, cán bộ, hội viên và các tầng lớp phụ nữ trong tỉnh đã thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội phụ nữ tỉnh nhiệm kỳ 2011-2016, đang ra sức thi đua lập thành tích chào mừng Đại hội Đại biểu phụ nữ các cấp tiến tới Đại hội Đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ XII.

Tuy nhiên, những tác động của kinh tế thế giới suy thoái kéo dài; bất ổn chính trị, chiến tranh cục bộ xảy ra ở nhiều nơi; tranh chấp chủ quyền trên biển Đông diễn ra với tính chất ngày càng phức tạp. Tỉnh Đăk Nông vẫn còn nhiều khó khăn: “hạ tầng kỹ thuật, nhất là giao thông còn yếu kém; tình trạng dân nghèo di cư tự do và tỷ lệ hộ nghèo cao nhất vùng; trình độ dân trí và chất lượng nguồn nhân lực thấp; an ninh chính trị phức tạp và luôn thường trực các yếu tố gây bất ổn định; các thế lực thù địch âm mưu thực hiện “diễn biến hòa bình”[1]địa bàn tỉnh có đường biên giới giáp tỉnh Mondulkiri -Campuchia, an ninh chính trị có thời điểm còn diễn biến phức tạp, một bộ phận quần chúng, trong đó có phụ nữ đã bị các thế lực thù địch và bọn phản động lôi kéo, kích động; công tác xóa đói giảm nghèo chưa thật sự bền vững, tỷ lệ hộ nghèo còn cao nhất vùng 19,26% (theo chuẩn mới), là những khó khăn ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống hội viên, phong trào phụ nữ và công tác Hội.

Đại hội Đại biểu phụ nữ tỉnh Đăk Nông lần thứ III, nhiệm kỳ 2016-2021, phát huy truyền thống, tiềm năng, sức sáng tạo của Phụ nữ, xây dựng tổ chức Hội vững mạnh, góp phần đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng tỉnh Đăk Nông ngày càng giàu đẹp.

Ban Chấp hành (BCH) Hội LHPN tỉnh Đăk Nông khoá III trình Đại hội dự thảo báo cáo đánh giá việc thực hiện Nghị quyết Đại hội Đại biểu phụ nữ tỉnh lần thứ II, nhiệm kỳ 2011 -2016; đề ra mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp nhiệm kỳ 2016-2021 như sau:

Phần thứ nhất

ĐÁNH GIÁ PHONG TRÀO PHỤ NỮ VÀ HOẠT ĐỘNG HỘI

NHIỆM KỲ 2011-2016

I. ĐÁNH GIÁ PHONG TRÀO PHỤ NỮ

1. Khái quát tình hình phụ nữ

Phát huy truyền thống của người phụ nữ Việt Nam, phụ nữ tỉnh Đăk Nông tích cực cùng nhân dân các dân tộc trong tỉnh hưởng ứng các phong trào thi đua yêu nước đã tạo được khí thế thi đua sôi nổi, thu hút đông đảo cán bộ, hội viên, các tầng lớp phụ nữ tham gia. Phong trào thi đua “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”, gắn với Chỉ thị số 03-CT/TW, ngày 14/5/2011 của Bộ Chính trị, về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, tạo động lực thúc đẩy cán bộ, hội viên, các tầng lớp phụ nữ hăng hái vượt qua khó khăn, thách thức, năng động, sáng tạo, đóng góp hiệu quả vào các lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh góp phần quan trọng vào sự phát triển chung của tỉnh.

Tuy nhiên, biến đổi khí hậu bất thường, hạn hán kéo dài; tình trạng buôn lậu, hàng giả, hàng kém chất lượng, việc sử dụng các hóa chất độc hại trong bảo quản, chế biến thực phẩm ngày càng gia tăng; giá các mặt hàng nông sản (điều, cà phê, tiêu...)không ổn định; công tác giải tỏa đền bù, một số dự án treo chưa được giải quyết dứt điểm; tình hình tội phạm và tệ nạn xã hội phức tạp, buôn bán phụ nữ, trẻ em, tham gia vượt biên trái phép, các tà đạo vẫn còn nhất là phụ nữ người dân tộc thiểu số thuộc các xã giáp biên giới; tỷ lệ nữ tham gia vào các cơ quan dân cử, cấp ủy có tăng so với nhiệm kỳ trước nhưng chưa đạt tỷ lệ theo quy định vẫn còn là những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến hội viên, phụ nữ.

2. Những đóng góp quan trọng của các tầng lớp phụ nữ

Trước tình hình trên, các cấp Hội đã bám sát Nghị quyết Đại hội phụ nữ toàn quốc lần thứ XI và Nghị quyết Đại hội phụ nữ tỉnh lần thứ II để triển khai nhiệm vụ công tác Hội và đạt được kết quả quan trọng trên các lĩnh vực:

2.1. Trên lĩnh vực kinh tế

Hưởng ứng các phong trào thi đua: “Nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi”, công nhân “Lao động giỏi, lao động sáng tạo”, Phụ nữ tham gia tích cực vào việc chuyển đổi cơ cấu giống, cây trồng, vật nuôi;ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ cao trong sản xuất; đa dạng hóa các mô hình trang trại chăn nuôi gia súc, gia cầm, trồng cây cao su, cà phê, hồ tiêu và các loại nông sản thực phẩm có giá trị kinh tế cao… vươn lên thoát nghèo bền vững, chủ động tham gia xây dựng nông thôn mới. Một số chị em có đóng góp quan trọng trong việc khôi phụcnghề dệt thổ cẩm vừa lưu giữ nét đẹp văn hóa truyền thống, xóa đói giảm nghèo đối với phụ nữ đồng bào dân tộc thiểu số. Tỷ lệ nữ làm chủ doanh nghiệp cao, đa số đã vượt qua khó khăn của thời kỳ suy giảm kinh tế, năng động, sáng tạo, duy trì kinh doanh sản xuất, từng bước phát triển, hội nhập, các chị đã tạo việc làm ổn định cho hàng trăm lao động; tích cực thực hiện trách nhiệm xã hội, góp phần vào tăng trưởng GDP bình quân hàng năm đạt 12,62%, thu nhập bình quân đầu người 36,4 triệu đồng/người/năm.

2.2. Trên lĩnh vực văn hóa, xã hội

Công tác nữ công trong các cơ sở giáo dục ngày càng đẩy mạnh, đặc biệt phong trào “Giỏi việc trường, đảm việc nhà” đã thu được nhiều kết quả đáng khích lệ, góp phần quan trọng vào sự lớn mạnh của ngành.Đội ngũ nữ giáo viên tích cực nghiên cứu khoa học, sáng kiến kinh nghiệm, có nhiều đề tài khoa học được công nhận làm cơ sở cho việc hoạch định chính sách, ứng dụng vào sản xuất đem lại lợi ích kinh tế - xã hội trên nhiều lĩnh vực; tích cực học tập nâng cao trình độ chuyên môn, áp dụng phương pháp dạy học tích cực, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, tỉ lệ học sinh tốt nghiệp các cấp năm sau cao hơn năm trước, nhiều học sinh đạt giải cao qua các kỳ thi học sinh giỏi các cấp. Công tác phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở đạt mục tiêu đề ra. Đội ngũ giáo viên nữ tăng về số lượng và chất lượng. Phụ nữ và trẻ em gái ngày càng bình đẳng hơn về cơ hội được tiếp cận giáo dục đào tạo.

Chiếm 63% (1.338/2.124) lực lượng lao động toàn ngành, phụ nữ ngành Y tế với phong trào “Thầy thuốc như mẹ hiền” đã không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, rèn luyện y đức, đóng góp đáng kể cho sự nghiệp chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân. Các chính sách trong bảo hiểm y tế đã tạo điều kiện cho phụ nữ được tiếp cận dịch vụ y tế và chăm sóc sức khỏe; các bệnh xã hội, dịch bệnh giảm; giảm tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng.

Trong Văn hóa, thể thao và du lịch, phụ nữ đã đóng góp quan trọng vào việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa phi vật thể. Xã hội hóa hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch tạo điều kiện mức hưởng thụ văn hóa của phụ nữ ở cộng đồng. Phụ nữ tham gia ngày càng nhiều và hoạt động có chất lượng trong lĩnh vực báo chí, xuất bản, văn học, nghệ thuật.

Trong gia đình, phụ nữ được đề cao và tham gia nhiều hơn vào quyết định các vấn đề quan trọng, khẳng định vị trí, vai trò chủ chốt trong xây dựng hạnh phúc gia đình bền vững, tích cực lao động nâng cao thu nhập, tổ chức tốt cuộc sống gia đình, chăm lo giáo dục thế hệ trẻ giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống, góp phần xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc.

2.3. Trên lĩnh vực an ninh, quốc phòng

Phụ nữ tích cực trong các hoạt động đấu tranh phòng, chống âm mưu diễn biến hòa bình, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội, bảo vệ chủ quyền an ninh, biên giới; góp phần vào việc tổ chức thành công Đại hội Đảng, cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016 - 2021.

Phụ nữ lực lượng vũ trang và nữ dân quân chiếm tỷ lệ không lớn nhưng cùng với phong trào thi đua “Vì an ninh Tổ quốc” của Công an Đắk Nông các chị cũng thực hiện có hiệu quả phong trào “Phụ nữ Công an nhân dân học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; kỷ cương, sáng tạo vì an ninh Tổ quốc”; từ phong trào thi đua của phụ nữ lực lượng vũ trang đã đem lại kết quả tích cực trong học tập, rèn luyện và chiến đấu  lập nhiều thành tích xuất sắc  trên mọi lĩnh vực,góp phần giữ vững an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh.

2.4. Tham gia xây dựng Đảng, chính quyền

Phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào hoạt động chính trị, thực hiện dân chủ ở cơ sở, tham gia đóng góp xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền; tỷ lệ nữ tham gia Cấp uỷ Đảng, Chính quyền, HĐND các cấp tăng hơn so với nhiệm kỳ trước[2], đóng góp tích cực vào việc lãnh đạo, quản lý tại địa phương. Nữ cán bộ công chức, viên chức giỏi việc nước, đảm việc nhà; tích cực nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ; trau dồi bản lĩnh chính trị và phẩm chất đạo đức, tự khẳng định mình ở từng vị trí công tác. Số lượng đảng viên nữ được kết nạp trong nhiệm kỳ chiếm 38,62% (2.846/7.368).

Các tầng lớp phụ nữ đều phát huy tính chủ động, tham gia tích cực vào phong trào thi đua yêu nước: nữ thanh niên tình nguyện, xung kích đi đầu trong các phong trào và hoạt động phát triển cộng đồng; phụ nữ các dân tộc thiểu số, đoàn kết, tích cực thực hiện các chương trình, chính sách; chăm chỉ, cần cù lao động thoát nghèo; giữ gìn bản sắc văn hóa truyền thống; từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần; phụ nữ tôn giáo tích cực tham gia các hoạt động từ thiện nhân đạo, sống “tốt đời, đẹp đạo”, góp phần xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân; xây dựng quê hương giàu đẹp.

Từ phong trào thi đua, đã xuất hiện nhiều tấm gương phụ nữ và các tập thể nữ tiêu biểu trên các lĩnh vực và được các cấp Hội, các ngành biểu dương, khen thưởng. Nhiệm kỳ qua, có 100% cán bộ, 90% hội viên, phụ nữ được quán triệt nội dung phong trào; 109.818 (90%) hội viên, phụ nữ đăng ký thực hiện; trong đó có 87.854 (80%) hội viên, phụ nữ đạt 3 tiêu chuẩn, đạt chỉ tiêu Nghị quyết đề ra.

Những kết quả đạt được đã khẳng định vai trò, vị trí và tiềm năng của phụ nữ trong xây dựng và phát triển tỉnh nhà. Những thành tựu về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng, Xây dựng Đảng, Chính quyền là kết quả nỗ lực của nhân dân các dân tộc trong tỉnh, trong đó phụ nữ đóng góp một phần hết sức quan trọng.

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, phong trào phụ nữ đang đứng trước những khó khăn, thách thức đó là: Tỷ lệ lao động nữ không có việc làm, thiếu việc làm hoặc việc làm không ổn định còn cao, nhất là lao động nữ ở các xã vùng 3, biên giới; phụ nữ dân tộc thiểu số; phụ nữ vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số tỷ lệ mù chữ - tái mù còn cao, ít có điều kiện tiếp cận với những dịch vụ chăm sóc sức khỏe, hưởng thụ các hoạt động văn hóa, thông tin; tỷ lệ cán bộ nữ tham gia quản lý, lãnh đạo, tỷ lệ đảng viên nữ ở một số nơi còn thấp. Một số ít phụ nữ còn tự ty, an phận thiếu tinh thần vươn lên. Vấn đề định kiến giới, bạo lực gia đình còn tồn tại.

II. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN NHIỆM VỤ CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ TỈNH ĐĂK NÔNG, NHIỆM KỲ 2011-2016

1. Tuyên truyền, giáo dục, vận động phụ nữ thực hiện chủ trương, luật pháp, chính sách; rèn luyện phẩm chất đạo đức; nâng cao trình độ nhận thức

Nhiệm kỳ qua, công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động của Hội có nhiều đổi mới với nhiều nội dung, hình thức đa dạng phong phú phù hợp với nhu cầu, trình độ, lứa tuổi[3] các cấp Hội đã bám sát nhiệm vụ chính trị, chỉ tiêu phát triển kinh tế xã hội của địa phương, tập trung các vấn đề liên quan đến phụ nữ, cập nhật diễn biến chính trị - thời sự của đất nước, chương trình mục tiêu quốc giavề xây dựng nông thôn mới, về vấn đnông nghiệp, nông dân, nông thôn”, xây dựng gia đình hạnh phúc, phòng chống bạo lực gia đình và phòng chống các tệ nạn xã hội; Nghị quyết 11 của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước; bầu cử Đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp... Để đưa Nghị quyết Đại hội phụ nữ các cấp nhiệm kỳ 2011-2016 đi vào cuộc sống, các cấp Hội chủ động xây dựng kế hoạch hoạt động toàn khóa; tổ chức, tập huấn cho báo cáo viên, tuyên truyền viên nòng cốt; nhấn mạnh những nét nổi bật, điểm mới, yếu tố trọng tâm để lãnh đạo và triển khai thực hiện[4]. Công tác xóa mù chữ cho phụ nữ và phổ cập bậc tiểu học, trung học cơ sở cho cán bộ, hội viên, phụ nữ được chú trọng triển khai; phối hợp với ngành Giáo dục - Đào tạo rà soát số phụ nữ, trẻ em trong độ tuổi mù chữ, hỗ trợ, tạo điều kiện để chị em được học tập, nâng cao trình độ. [5] Chủ động tìm các nguồn lực để mở rộng quy mô, đối tượng phụ nữ được hưởng lợi, các cấp hội đã phối hợp với các doanh nghiệp, các nhà hảo tâm tổ chức các chương trình nhân đạo từ thiện, ủng hộ giúp đỡ phụ nữ và trẻ em nghèo.

Công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật được triển khai có trọng tâm, trọng điểm, phù hợp với các nhóm đối tượng và địa bàn đã góp phần nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của phụ nữ[6].

Thực hiện Chỉ thị 03/CT-TW của Bộ Chính trị, hàng năm các cấp Hội đã tổ chức quán triệt các chuyên đề “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” gắn với kỷ niệm các ngày lễ lớn của đất nước, của Hội[7]; tổ chức 2.256 buổi tuyên truyền thu hút 90% cán bộ, hội viên, phụ nữ học tập; 100% cán bộ, đảng viên có chương trình hành động “làm theo Bác” gắn với rèn luyện phẩm chất “Tự tin, tự trọng, trung hậu, đảm đang”. Từ học tập đến làm theo, ngày càng xuất hiện nhiều mô hình hiệu quả, được nhân rộng[8]; qua các mô hình tiết kiệm 699.016.000đ giúp 134 hội viên, phụ nữ nghèo.

Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác giáo dục, vận động, truyền thông, các cấp Hội chú trọng công tác tuyên truyền miệng; đa dạng hóa các sản phẩm truyền thông, phát hành sâu, rộng tài liệu đến cơ sở; đẩy mạnh công tác phát hiện, tuyên truyền nhân rộng điển hình tiên tiến. Hướng dẫn thực hiện cải cách hành chính, thực hiện chế độ báo cáo, thông tin nhanh bằng email, website, giảm khối lượng văn bản, tập trung thời gian đi cơ sở, biên soạn tài liệu sinh hoạt Hội, tài liệu giáo dục chính trị tư tưởng dưới dạng hỏi - đáp giúp hội viên dễ hiểu, dễ nhớ và dễ làm theo.

Phong trào phụ nữ đọc, tìm hiểu và áp dụng kiến thức từ sách, báo được đẩy mạnh xuất phát từ sự quan tâm của các cấp Hội đồng thời cũng là nhu cầu, nguyện vọng và sở thích của chị em, đến nay 100% cơ sở Hội có tủ sách, các xã đặc biệt khó khăn được cấp báo không thu tiền sử dụng có hiệu quả trong các buổi sinh hoạt Hội, nâng cao kiến thức xã hội, thu hút đông đảo hội viên, phụ nữ tham gia.

Các hoạt động nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần cho phụ nữ ngày càng được quan tâm như: hội thi, hội diễn văn nghệ, thể dục thể thao được tổ chức sôi nổi, có sức lan tỏa rộng thu hút các tầng lớp phụ nữ và nhân dân tham gia, 100% cơ sở Hội “duy trì ít nhất 01 hình thức văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao”như chèo, hát then, đờn ca, tuồng, múa dân tộc, cồng chiêng, đội bóng chuyền nữ…Nhiều hoạt động phong phú vì môi trường được nhân rộng góp phần cùng địa phương đạt một số tiêu chí về xây dựng nông thôn mới[9].

Đề án “Tuyên truyền, giáo dục phẩm chất đạo đức phụ nữ Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước, giai đoạn 2010-2015” được các cấp Hội triển khai thực hiện có hiệu quả. Đặc biệt tổ chức Liên hoan hát ru, dân ca và cổ truyền từ cấp cơ sở đến cấp tỉnh thành công tốt đẹp được Chủ tịch UBND tỉnh tặng Bằng khen 10 tập thể. Thông qua đó, đã tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và hành động của hội viên, phụ nữ; giúp chị em ngày càng tự tin hơn trong giao tiếp, mạnh dạn trong phát triển kinh tế, bày tỏ chính kiến trước đám đông, nghiêm chỉnh chấp hành các quy định của pháp luật và địa phương, tích cực hơn trong tham gia các hoạt động xã hội vì lợi ích cộng đồng; kết quả có 70% phụ nữ và trên 95% cán bộ, hội viên, phụ nữ, cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp tham gia, đạt chỉ tiêu Nghị quyết.

Với sự sáng tạo, linh hoạt trong lựa chọn nội dung hình thức tuyên truyền, giáo dục, vận động phù hợp, hàng năm 100% cán bộ, 80% hội viên, phụ nữ được tiếp cận thông tin tuyên truyền của Hội đạt chỉ tiêu Nghị quyết.

2. Vận động, hỗ trợ phụ nữ xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững

Đây là nhiệm vụ được các cấp Hội đặc biệt chú trọng trong nhiệm kỳ qua, lồng ghép chặt chẽ với các phong trào thi đua, Cuộc vận động “Xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch” và các nhiệm vụ trọng tâm của Hội. Với mục tiêu lấy gia đình là trọng tâm để tác động, các Đề án, chương trình từng bước thay đổi nhận thức của phụ nữ nói riêng, cộng đồng nói chung về vai trò, vị trí của gia đình trong xã hội.

Đề án “Giáo dục 5 triệu bà mẹ nuôi, dạy con tốt” giai đoạn 2011-2015 bước đầu hỗ trợ các tầng lớp phụ nữ nâng cao nhận thức, kiến thức, kỹ năng, hướng tới chuyển đổi hành vi về nuôi dạy con theo khoa học; kết quả 80% bà mẹ có con dưới 16 tuổi được phổ biến kiến thức về Đề án góp phần phát huy giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam, đạt chỉ tiêu Nghị quyết.

Xuất phát từ tình hình thực tiễn, Hội LHPN tỉnh đã triển khai lồng ghép, cụ thể hóa Cuộc vận động “Xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch” gắn với phong trào “Phụ nữ Đắk Nông chung sức xây dựng nông thôn mới”; việc triển khai thực hiện các tiêu chí cụ thể, thiết thực tạo được sự thay đổi rõ rệt về nhận thức và hành động, giúp chị em nâng cao kiến thức về xây dựng cuộc sống gia đình.

Để nâng cao vai trò của gia đình trong việc giải quyết các vấn đề xã hội, các cấp Hội phụ nữ tiếp tục thực hiện tốt các chương trình phối hợp, góp phần thiết thực nâng cao vai trò, trách nhiệm của gia đình trong nuôi dạy, giáo dục con, cháu và giải quyết các vấn đề xã hội, xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững.

Công tác chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ, trẻ em luôn được chú trọng, phối hợp với ngành Y tế thực hiện bằng nhiều hình thức,qua đó, nhằm cung cấp kiến thức liên quan đến Dân số - kế hoạch hóa gia đình và chăm sóc sức khỏe sinh sản, có 83.438 lượt chịtham gia và thực hiện tốt.

Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm được chú trọng triển khai bằng hình thức, chị em tích cực hưởng ứng ký cam kết thực hiện tốt vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm để đảm bảo sức khỏe cho bản thân, gia đình và trách nhiệm với cộng đồng.

Tuyên truyền, vận động phụ nữ tham gia bảo đảm trật tự an toàn giao thông vì hạnh phúc của mỗi gia đình. Ký kết Chương trình phối hợp với Ban An toàn giao thông tỉnh về tuyên truyền, vận động “Phụ nữ tham gia bảo đảm trật tự an toàn giao thông vì hạnh phúc của mỗi gia đình” nhằm vận động phụ nữ gương mẫu thực hiện và động viên chồng, con, người thân trong gia đình cùng hưởng ứng, góp phần làm giảm tai nạn và ùn tắc giao thông.

Công tác tuyên truyền, vận động cán bộ, hội viên, phụ nữ tham gia BHYT, BHXH được quan tâm. Xây dựng Chương trình phối hợp giữa Hội LHPN tỉnh và Bảo hiểm xã hội tỉnh Đăk Nông về thực hiện chính sách BHXH, BHYT giai đoạn 2015-2020; triển khai thực hiện đến 100% cơ sở hội nhằm đảm bảo từng bước thực hiện tốt vấn đề an sinh xã hội ở địa phương.

Công tác đền ơn đáp nghĩa, nhân đạo từ thiện, công tác hậu phương quân đội được các cấp Hội chú trọng. Trong 5 năm qua, toàn tỉnh đã vận động xây dựng được 83 mái ấm tình thương cho phụ nữ nghèo có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn với tổng số tiền 3.695.865.000đ, hoạt động này không chỉ được hội viên, phụ nữ tích cực tham gia, mà còn được cả hệ thống chính trị của tỉnh đồng tình hưởng ứng (83/100 căn, chưa đạt chỉ tiêu Nghị quyết). Ủng hộ xây dựng tượng đài Bà Triệu 125.410.000đ; góp phần phát huy tinh thần truyền thống nhường cơm sẽ áo; yêu nước và sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

3. Vận động, hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, giảm nghèo bền vững, bảo vệ môi trường

Để triển khai tốt các hoạt động vận động, hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, giảm nghèo bền vững, bảo vệ môi trường. Ngay từ đầu nhiệm kỳ Hội LHPN tỉnh đã xác định đây là nhiệm vụ trọng tâm, then chốt, là đòn bẩy thúc đẩy các hoạt động khác của Hội. BTV Hội đã hướng dẫn chỉ đạo các huyện/thị Hội xây dựng kế hoạch giúp đỡ, mỗi chi hội tập trung hỗ trợ một hộ thoát nghèo bằng nhiều hình thức đồng thời giúp các chị em tiếp cận các nguồn vốn vay ưu đãi để phát triển kinh tế gia đình, chú trọng phát huy nội lực của từng hộ, hạn chế dần sự phụ thuộc nguồn vốn từ bên ngoài.

Các cấp Hội đã phát động nhiều phong trào thu hút đông đảo hội viên phụ nữ tham gia gắn với “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, kết quả, vận động được 19.373.739.000đ giúp cho 21.241 lượt chị em có hoàn cảnh khó khăn vay không tính lãi.

Bên cạnh các phong trào giúp nhau phát triển kinh tế, hoạt động tiết kiệm tại các chi/tổ cũng được phát động nhằm tạo nguồn vốn tại chỗ, nâng cao nhận thức, xây dựng cho chị em phụ nữ thói quen tiết kiệm khi chi tiêu, đầu tư sản xuất, chăn nuôi giúp nhau phát triển kinh tế gia đình. Đến nay đã có 100% cơ sở Hội, 100% chi tổ, 90% hội viên tham gia các loại hình tiết kiệm tại chi/tổ như tiết kiệm góp vốn quay vòng, tiết kiệm qua tổ vay vốn ngân hàng CSXH, Nhóm tín dụng tiết kiệm... Các câu lạc bộ, tổ, nhóm đều hoạt động có hiệu quả với tổng số dư nợ tiết kiệm lên 49.163.950.000đ.

Hàng năm Tỉnh Hội chỉ đạo các cấp Hội phối hợp với các ban ngành, đoàn thể tổ chức rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo tại địa phương, trên cơ sở đó lập sổ theo dõi hội viên nghèo làm chủ hộ, xác định nguyên nhân dẫn đến nghèo đói và có biện pháp giúp đỡ phù hợp. Nhiệm kỳ 2011-2016, 90% phụ nữ chủ hộ nghèo được giúp đỡ, trong đó 2.945 hộ đã thoát nghèo đạt 62% (Nghị quyết 40- 50%), vượt 12%.

Thực hiện đường lối đổi mới, chủ trương xoá đói giảm nghèo của Đảng, Nhà nước, Trung ương Hội LHPN Việt Nam và Nghị quyết đại hội Đảng bộ tỉnh, Nghị quyết đại hội phụ nữ các cấp; các cấp Hội đã nêu cao tinh thần trách nhiệm và thể hiện rõ vai trò của tổ chức Hội trong việc ký uỷ thác nguồn vốn vay từ Ngân hàng Chính sách xã hội giúp phụ nữ tiếp cận các nguồn vốn vay nhằm cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho chị em, góp phần tích cực thực hiện thắng lợi mục tiêu xoá đói giảm nghèo của tỉnh. Đến nay tổng dư nợ 532.554.790.000đ tăng 219.011.612.500đ đạt 70%, tỷ lệ nợ quá hạn thấp 0.51 % giảm 1.63% so với đầu nhiệm kỳ. Tuy nhiên, một số đơn vị tỷ lệ nợ quá hạn vẫn còn cao; một số cán bộ Hội vay lại vốn của người dân ảnh hưởng không nhỏ tới uy tín của Hội.

Các nguồn vốn do Hội quản lý: Canađa, Ngày tiết kiệm vì phụ nữ nữ nghèo với tổng số tiền 529.000.000đ luôn được duy trì quay vòng giúp chị em phát triển kinh tế gia đình, đầu tư chăm sóc cây trồng, vật nuôi… nhiều mô hình[10] phát triển kinh tế có tính liên kết giữa các thành viên tạo năng suất cao, hiệu quả bền vững.

Công tác bảo vệ môi trường được tuyên truyền rộng rãi và gắn liền với những hoạt động thiết thực trong đời sống của chị em (điển hình – bỏ)[11] góp phần thực hiện tốt Cuộc vận động “Xây dựng gia đình5 không, 3 sạch” và chương trình mục tiêu quốc gia “Xây dựng nông thôn mới”.

Đề án “Hỗ trợ phụ nữ học nghề, tạo việc làm giai đoạn 2010-2015”: tổ chức 80 lớp dạy nghề, 10 lớp cơ sở văn hóa ngoài giờ có 4.000 học viên, đạt chỉ tiêu Nghị quyết. Sau học nghề có 1.642 lao động có việc làm và tự tạo việc làm tại chỗ đạt tỷ lệ 55%. Tổ chức tập huấn nâng cao năng lực cho 78/78 cán bộ quản lý, giáo viên dạy nghề. Công tác này từng bước đáp ứng nhu cầu của hội viên, phụ nữ tỉnh nhà.    

Thực hiện chiến lược phát triển tài chính vi mô, Hội LHPN tỉnh chuyển đổi thành công Quỹ Cơ hội cho phụ nữ làm kinh tế sang mô hình Quỹ xã hội; từng bước giúp hội viên, phụ nữ dân tộc thiểu số vươn lên xóa đói giảm nghèo. Mô hình này được Tỉnh ủy, UBND tỉnh đánh giá cao. Doanh số cho vay tính đến 31/8/2016 đạt 86.707.276.000đ, dư nợ đạt 33.747.074.000đ với tổng số 1.706 khách hàng, từng bước giúp hội viên, phụ nữ dân tộc thiểu số vươn lên xóa đói giảm nghèo[12].

4. Tham mưu đề xuất, tham gia xây dựng, phản biện và giám sát luật pháp, chính sách về bình đẳng giới

Trong tham gia xây dựng pháp luật, chính sách; các cấp Hội từng bước khẳng định vai trò tham gia góp ý, sửa đổi các dự thảo Luật, các chính sách phát triển kinh tế - xã hội[13]. Triển khai thực hiện Quyết định số 217, 218-QĐ/TW ngày 12/12/2013 đến 15.546 tuyên truyền viên, Chủ tịch, Phó Chủ tịch phụ nữ các xã/phường/thị trấn. Hàng năm chỉ đạo các cấp Hội đã chủ động chọn 2 nội dung giám sát liên quan đến quyền và lợi ích chính đáng của phụ nữ, trẻ em[14], đạt chỉ tiêu Nghị quyết. Qua giám sát các đơn vị thực hiện đúng quy định và những kiến nghị, đề xuất của cán bộ, hội viên đã được phản ánh kịp thời đến chính quyền và các ngành liên quan có hướng giải quyết. Đồng thời, giúp chị em nâng cao kiến thức về chính sách, pháp luật; thúc đẩy tinh thần ham học hỏi, tự giác, trách nhiệm trong việc triển khai, tổ chức thực hiện tốt vai trò, trách nhiệm của Hội phụ nữ các cấp.

Các cấp Hội từng bước phát huy vai trò đại diện trong các cơ quan quyền lực, hệ thống chính trị, triển khai nhiều hoạt động góp phần tăng tỷ lệ và nâng cao chất lượng hoạt động của phụ nữ ở các vị trí lãnh đạo, quản lý.

Về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ; thường xuyên nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp phụ nữ, chủ động đề xuất và tham gia giải quyết các vấn đề liên quan đến phụ nữ về các vấn đề an sinh xã hội.

Duy trì thường xuyên các công tác hòa giải và trực tiếp hòa giải thành công 467 đơn thư về Bình đẳng giới; Hôn nhân và gia đình; Bạo lực gia đình không có đơn thư tồn đọng, vượt cấp (đạt chỉ tiêu Nghị quyết).

5. Xây dựng và phát triển tổ chức Hội vững mạnh

Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động Hội; với phương châm hướng về cơ sở, ưu tiên nâng cao chất lượng hoạt động tổ chức Hội cơ sở, nhất là chi/tổ phụ nữ. BTV Hội LHPN tỉnh đã chủ động đổi mới dưới nhiều hình thức: tổ chức ký kết giao ước thi đua trong hệ thống Hội và theo cụm thi đua; tăng cường cán bộ đi cơ sở để nắm bắt tình hình và hướng dẫn cầm tay chỉ việc; lựa chọn những nội dung, địa bàn ưu tiên, vướng mắc, bất cập của các đơn vị tập trung chỉ đạo, cụ thể hóa các nhiệm vụ có trọng tâm, trọng điểm gắn với chỉ tiêu thực hiện từng năm.

Công tác thi đua, khen thưởng được đổi mới theo hướng phát huy tính chủ động cho các cấp Hội, nêu cao vai trò của các cụm thi đua.Tổ chức phát động các đợt thi đua đặc biệt gắn với kỷ niệm các ngày lễ lớn, sự kiện chính trị trọng đại của đất nước, của Hội và địa phương. Việc biểu dương, khen thưởng, tuyên truyền gương điển hình tiên tiến trên các lĩnh vực được quan tâm dưới nhiều hình thức, thu hút phụ nữ hăng hái thi đua.

Tập trung củng cố nâng cao chất lượng hoạt động Hội ở cơ sở; nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức Hội, các cấp Hội khảo sát, đánh giá chất lượng tổ chức Hội cơ sở, đội ngũ cán bộ Hội và tình hình hội viên. Sau khảo sát BTV đã đề ra các mục tiêu, giải pháp để khắc phục khó khăn, hỗ trợ nguồn lực, hướng dẫn cơ sở triển khai thực hiện. Đến nay trên địa bàn tỉnh không còn thôn, buôn, bon trắng về tổ chức Hội; kết quả phân loại tổ chức Hội cơ sở được nâng lên; bình quân hàng năm 90% cơ sở Hội đạt vững mạnh, xuất sắc[15] đạt chỉ tiêu Nghị quyết. Công tác kiểm tra được các cấp Hội chú trọng, chủ động xây dựng chương trình, kế hoạch kiểm tra chuyên đề, định kỳ, kịp thời phát hiện, ngăn chặn, hạn chế các biểu hiện vi phạm Điều lệ Hội. Thông qua kiểm tra giúp nâng cao vai trò lãnh đạo của tổ chức Hội các cấp.

Các cấp Hội thường xuyên quan tâm, đổi mới phương thức sinh hoạt, tổ chức các hoạt động[16] để thu hút phụ nữ tham gia vào tổ chức Hội. Nhiệm kỳ qua phát triển mới 11.163 hội viên, tăng 5% so với đầu nhiệm kỳ[17]. 100% hội viên trong diện đóng hội phí tham gia đầy đủ; 81.483/100.251 hộ gia đình có phụ nữ từ 18 tuổi trở lên có hội viên. Đến nay có 8/8 huyện, thị thực hiện công tác phát thẻ hội viên chiếm tỷ lệ 100%,đạt chỉ tiêu Nghị quyết.

Xây dựng 100 Chi hội mẫu hoạt động có chất lượng, góp phần xây dựng nông thôn mới theo 19 tiêu chí của tỉnh đề ra và 80% hộ gia đình phụ nữ đạt tiêu chuẩn “Gia đình văn hóa” các cấp, đạt chỉ tiêu Nghị quyết.

Kiện toàn bộ máy và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Hội các cấp được BTV Tỉnh ủy Quyết định số 113-QĐ/TU ngày 18/01/2016, ban hành quy định chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và mối quan hệ công tác của Hội LHPN tỉnh; theo đó bộ máy cấp tỉnh 27 đồng chí (gồm có 06 phòng ban và 01 trung tâm giới thiệu việc làm phụ nữ tỉnh); Thường trực 5 đ/c (01 Phó Chủ tịch và 04 Phó Chủ tịch); BTV phân công, bố trí sắp xếp cán bộ đảm bảo thuận lợi trong chỉ đạo, tổ chức thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm của Hội.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực cán bộ Hội các cấp được chú trọng, thông qua thực hiện Đề án “Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Hội LHPN các cấp giai đoạn 2013 - 2017” (ĐA 1891); thông qua đó, giúp cán bộ hội nâng cao năng lực đáp ứng công việc được giao[18].

Công tác phụ nữ dân tộc tôn giáođược các cấp Hội đẩy mạnh hoạt động; thực hiện Nghị quyết số 06/NQ-BCH của Hội LHPN Việt Nam về “Tăng cường công tác vận động phụ nữ dân tộc thiểu số, phụ nữ có đạo trong tình hình hiện nay” và Chương trình hành động thực hiện Chiến lược công tác dân tộc đến năm 2020; thường xuyên tuyên truyền, hướng dẫn hội viên tín đồ tôn giáo xây dựng cuộc sống “tốt đời, đẹp đạo”, góp phần xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư; tổ chức thăm hỏi người có uy tín, chức sắc, chức việc và hội viên nòng cốt dân tộc, tôn giáo nhân các ngày lễ, tết; duy trì và nhân rộng các mô hình kết nghĩa giữa các thôn, buôn và giữa các chi hội người kinh với chi hội người đồng bào dân tộc thiểu số. Tăng cường công tác nắm tình hình tư tưởng trong hội viên, phụ nữ; kịp thời phát hiện và giải quyết những vấn đề nổi cộm ở cơ sở; vận động không nghe, không theo, không tụ tập, khiếu kiện đông người, không vượt biên trái phép, không theo các tà đạo, đạo lạ....

6. Tăng cường công tác đối ngoại và hợp tác quốc tế

Nhiệm kỳ qua các cấp Hội đã tuyên truyền đến cán bộ, hội viên, phụ nữ hiểu về vấn đề biển Đông, Luật Biên giới, công tác biên giới đất liền Việt Nam - Campuchia… Đặc biệt tuyên truyền, vận động phụ nữ dân tộc thiểu số các huyện giáp biên không vượt biên trái phép, không nghe lời kẻ xấu dụ dỗ, lợi dụng, có ý thức bảo vệ an ninh biên giới[19].

Nhằm tăng cường mối đoàn kết, hữu nghị giữa Hội Phụ nữ 2 tỉnh có chung đường biên giới đất liền; mở rộng quan hệ, hợp tác quốc tế. Hội LHPN tỉnh đã tổ chức sang thăm, ký kết thỏa thuận ghi nhớ hợp tác với Sở Phụ nữ tỉnh Mondulkiri (Campuchia) về phòng chống buôn bán phụ nữ, trẻ em giai đoạn 2015-2020, góp phần bảo vệ phụ nữ và trẻ em; thắt chặt tình hữu nghị hợp tác; giữ vững an ninh chính trị khu vực biên giới 2 nước Việt Nam – Campuchia.

III. ĐÁNH GIÁ CHUNG VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM

1. Đánh giá chung

Nhiệm kỳ qua, dưới sự lãnh đạo của BTV Tỉnh ủy, Trung ương Hội LHPN Việt Nam, sự phối hợp chặt chẽ của các Sở, ban, ngành, đoàn thể, các tầng lớp phụ nữ trong tỉnh đã đoàn kết phấn đấu, năng động, sáng tạo phát huy sức mạnh nội lực, truyền thống, phẩm chất tốt đẹp của phụ nữ Việt Nam, phụ nữ tỉnh Đăk Nông góp sức cùng với nhân dân các dân tộc trong tỉnh thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng của tỉnh.Các cấp Hội đã bám sát Nghị quyết của cấp ủy cùng cấp, Nghị quyết của Hội cấp trên và cụ thể hóa thành chương trình, kế hoạch hoạt động phù hợp với đặc điểm, tình hình của từng địa phương. Tập trung hướng mạnh hoạt động về cơ sở; công tác chỉ đạo của BCH có nhiều chuyển biến theo hướng xác định trọng tâm, trọng điểm; sâu sát cơ sở, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng chính đáng của hội viên, phụ nữ. Vai trò của tổ chức Hội ngày càng được khẳng định, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết của Đảng, phong trào thi đua và 6 nhiệm vụ trọng tâm của Hội, có 11/12 chỉ tiêu đạt và vượt Nghị quyết đề ra. Các cấp Hội phụ nữ không ngừng đổi mới nội dung, phương thức hoạt động Hội; từng bước thực hiện tốt vai trò đại diện quyền làm chủ của phụ nữ, tích cực tham gia giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc liên quan đến phụ nữ, trẻ em; đặc biệt quan tâm đến các hoạt động nâng cao trình độ nhận thức, hỗ trợ phụ nữ xây dựng gia đình hạnh phúc, phát triển kinh tế, giảm nghèo bền vững. Cuộc vận động xây dựng “Gia đình 5 không, 3 sạch” được lồng ghép triển khai sâu rộng trong các cấp Hội, thu hút đông đảo hội viên, phụ nữ hưởng ứng, góp phần có hiệu quả vào chương trình quốc gia về xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh. Công tác tuyên truyền, giáo dục và tổ chức các hoạt động phong trào được cụ thể hoá với nhiều nội dung, hình thức phong phú, đa dạng phù hợp với từng đối tượng phụ nữ, nhất là phụ nữ vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào DTTS. Hoạt động chăm lo, hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo, xây dựng gia đình hạnh phúc được quan tâm với nhiều mô hình hay, thu hút nhiều tầng lớp phụ nữ tham gia. Bộ máy tổ chức Hội từ tỉnh đến cơ sở được củng cố, kiện toàn cả về số lượng và chất lượng; đội ngũ cán bộ Hội ngày càng được chuẩn hóa về trình độ chuyên môn và lý luận chính trị, năng động, nhiệt tình, trách nhiệm, sáng tạo trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ được giao.

Với những kết quả đạt được, nhiệm kỳ qua Hội LHPN tỉnh Đăk Nôngvinh dự được Hội LHPN Việt Nam tặng 45 Bằng khen, Ủy ban Nhân dân tỉnh tặng 25 Bằng khen; đây là những thành tích đáng trân trọng và tự hào, là những phần thưởng cao quý, ghi nhận công sức và sự đóng góp to lớn của các tầng lớp phụ nữ, cán bộ, hội viên tỉnh nhà, là sự kế thừa và phát huy truyền thống của phụ nữ tỉnh Đăk Nông, là niềm vui chung của phụ nữ các dân tộc trong tỉnh.

* Nguyên nhân đạt được

Sự quan tâm lãnh đạo của các cấp ủy Đảng; của Trung ương Hội; tạo điều kiện của chính quyền địa phương; phối hợp của các ban, ngành, đoàn thể, sự ủng hộ của cộng đồng, chủ trương đúng đắn, thống nhất trong chỉ đạo của BCH các cấp Hội; sự đoàn kết, thống nhất của BCH phụ nữ các cấp trong triển khai kế hoạch, tăng cường kiểm tra giám sát, tổ chức chỉ đạo sơ kết, tổng kết đánh giá phong trào.

Sự chủ động, tham mưu, đề xuất, xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện của các cấp Hội. Tổ chức ký kết và duy trì các chương trình phối hợp với các sở, ban, ngành, đoàn thể ở địa phương, khai thác các nguồn lực, xây dựng nhiều mô hình mới để tạo sức mạnh tổng hợp cho Hội hoạt động; thu hút, tập hợp hội viên. Đội ngũ cán bộ Hội từ tỉnh đến cơ sở đoàn kết, nhiệt tình, tâm huyết với phong trào phụ nữ và hoạt động công tác Hội; năng động, sáng tạo vận dụng nhiệm vụ vào tình hình thực tiễn của địa phương; không ngừng đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, thực hiện tốt vai trò đại diện quyền làm chủ của phụ nữ; sự nhận thức của xã hội về giới và bình đẳng giới ngày càng được nâng lên.

Bên cạnh những kết quả đạt được, trong quá trình chỉ đạo, triển khai thực hiện, phong trào phụ nữ và hoạt động của các cấp Hội phụ nữ vẫn còn những hạn chếđó là:

Công tác tuyên truyền, giáo dục về các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước ở một số cơ sở, thôn, buôn, bon có lúc, có nơi còn hạn chế,dẫn đến nhận thức của chị em chưa cao, tình trạng tảo hôn, bạo lực gia đình vẫn còn xảy ra ở một số nơi. Cá biệt, một số phụ nữ dân tộc tôn giáo còn nhẹ dạ, cả tin bị bọn xấu lợi dụng vượt biên trái phép, bị lừa bán sang nước ngoài.

Công tác nắm bắt tư tưởng chưa nhạy bén, kịp thời, hoạt động giáo dục chính trị tư tưởng chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra. Việc phối hợp giải quyết các vấn đề gây bức xúc tại một số địa phương chưa được giải quyết kịp thời, thấu đáo.

Một số cơ sở Hội chưa thực sự đổi mới nội dung và phương thức hoạt động để đáp ứng yêu cầu và phù hợp với đặc điểm của địa phương, còn thụ động, thiếu linh hoạt và mang tính hình thức; việc phát hiện, xây dựng, bồi dưỡng, tuyên truyền, nhân điển hình tiên tiến chưa được chú trọng, biểu dương kịp thời; chưa có nhiều mô hình tập hợp nữ thanh niên, nữ trí thức, doanh nhân, nữ lao động trong các doanh nghiệp tư nhân.

Hoạt động giám sát và phản biện xã hội nhìn chung còn lúng túng, hình thức, hiệu quả chưa cao. Việc tham mưu UBND tỉnh ban hành quy chế phối hợp hoạt động theo Nghị định 56/2012/NĐ-CP còn chậm.

Công tác phát triển hội viên có nơi còn gặp khó khăn. Một số cơ sở số lượng và chất lượng hội viên nòng cốt chưa bảo đảm, chưa thể hiện và phát huy rõ vai trò của mình khi có tình huống xảy ra ở địa phương.

Cán bộ Hội nhất là cán bộ chi, tổ còn hạn chế về trình độ, năng lực, kỹ năng; một số cán bộ Hội, phương pháp làm việc thiếu tính sáng tạo, chưa khoa học, ngại học tập; việc tham mưu quy hoạch cán bộ nữ còn bị động, chưa có chế độ, chính sách phù hợp để khuyến khích, thu hút cán bộ trẻ và cán bộ có năng lực, có trình độ làm công tác Hội. Một số lãnh đạo địa phương chưa thực sự quan tâm đến công tác quy hoạch cán bộ Hội phụ nữ. Công tác phối hợp hoạt động với một số ban, ngành chưa được phát huy tốt. Kinh phí hoạt động còn hạn chế ảnh hưởng đến tổ chức thực hiện các phong trào Hội. 

* Nguyên nhân của hạn chế

Mặt trái của nền kinh tế thị trường làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội phức tạp liên quan trực tiếp đến phụ nữ, trẻ em. Đời sống của phần đông hội viên phụ nữ còn gặp nhiều khó khăn, hội viên phụ nữ phân b ở rải rác không tập trung nên chưa thường xuyên tham gia sinh hoạt Hội, tham gia học tập, nâng cao trình độ; ít tham gia các hoạt động xã hội nên trình độ hiểu biết về mọi mặt đời sống, xã hội của một bộ phận hội viên phụ nữ còn hạn chế, còn tự ty, an phận chưa vượt khó vươn lên, mắc các tệ nạn xã hội và vi phạm pháp luật.

2. Bài học kinh nghiệm

Từ thực tiễn củaphongtràophụnữvà hoạt độngHộiphụnữcáccấp nhiệm kỳ 2011-2016, qua đánh giá kết quả đạt được và những tồn tại, hạn chế, Hội LHPN tỉnh rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:

Thứ nhất,công tác chỉ đạo phong trào phụ nữ và hoạt động của Hội phải thường xuyên bám sát chủ trương, Nghị quyết của cấp ủy Đảng các cấp và Hội cấp trên để vận dụng sang tạo, phù hợp. Cácmụctiêu, chươngtrìnhcủaHộicầnphải đượclồngghépthườngxuyênvớichươngtrìnhpháttriểnkinhtế, xã hộicủa địaphương.

Thứ hai, độingũ cánbộHội, BCH, BTV phải đoàn kết thống nhất; thường xuyên họctậpnângcaonănglực, trình đ, kỹ năng, tích cực rènluyệnphẩmchất đạo đức, chú trọng côngtácquyhoạch, đàotạo, bồidưỡng cán bộ, đặcbiệtlà độingũ cánbộHội cơ sở, cánbộnữ dântộcthiểusố; xâydựngvà pháthuylựclượng đội ngũ chi, tổvà lựclượnghộiviênnòngcốt; tíchcực chủ động trongcôngtácthammưu, chỉ đạo.

Thứ ba, các cấp Hội chủ độngthực hiện đổi mới nội dung, phương thức hoạt động để không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác Hội, xây dựng, củng cố và phát triển tổ chức Hội vững mạnh; tăng cường sâu sát cơ sở, gắn bó mật thiết với hội viên, phụ nữ, phát huy quyền dân chủ, bình đẳng của phụ nữ.

Thứ tư, tăng cường công tác kiểm tra, nhân rộng điển hình tập thể và phụ nữ tiêu biểu trên các lĩnh vực, thường xuyên sơ, tổng kết rút kinh nghiệm và nhân rộng điển hình, tạo ra phong trào lớn mạnh trong toàn tỉnh.

Phần thứ hai

PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ GIAI ĐOẠN 2016-2021

Bước vào nhiệm kỳ 2016-2021, tỉnh Đăk Nông đứng trước những thuận lợi, thời cơ nhưng cũng đối mặt với những khó khăn, thách thức đan xen, tác động rất lớn đối với công tác Hội và phong trào phụ nữ, đó là:

Tốc độ tăng trưởng kinh tế tiếp tục khởi sắc; hạ tầng kinh tế - xã hội phát triển, bộ mặt đô thị, nông thôn chuyển biến tích cực; chất lượng giáo dục, y tế, thực hiện chính sách xã hội, xóa đói giảm nghèo được quan tâm; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số được cải thiện; quốc phòng, an ninhgiữ vững, trật tự, an toàn xã hội đảm bảo; khối đại đoàn kết toàn dân tộc không ngừngcủng cố và phát huy.

Tuy nhiên, phong trào và hoạt động của các cấp Hội phụ nữ tỉnh Đắk Nông những năm tiếp theo vẫn còn nhiều băn khoăn, lo lắng: vẫn còn là một tỉnh nghèo; mặt bằng dân trí và chất lượng nguồn nhân lực còn rất thấp so với nhu cầu phát triển. một bộ phận cán bộ Hội còn hạn chế về kiến thức, kỹ năng, khó đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đề ra trong tình hình mới.

Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ và định hướng lĩnh vực ưu tiên nhiệm kỳ XI của Đoàn Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam; vào Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh nhiệm kỳ 2015 – 2020 và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh giai đoạn 2015 - 2020; kết thừa, phát huy kết quả đạt được của các cấp Hội nhiệm kỳ 2011 - 2016, kinh nghiệm và bài học rút ra từ thực tiễn công tác Hội và phong trào phụ nữ. Mục tiêu, nhiệm vụ, phong trào phụ nữ và công tác Hội khóa III, nhiệm kỳ 2016 - 2021 tập trung vào các nội dung sau:

I. MỤC TIÊU TỔNG QUÁT

Đoàn kết, phát huy truyền thống, tiềm năng và sức sáng tạo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và vị thế của phụ nữ; đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, xây dựng tổ chức Hội vững mạnh thực hiện tốt chức năng đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ; phấn đấu vì mục tiêu bình đẳng giới, tiến bộ của phụ nữ, xây dựng gia đình hạnh phúc, góp phần thực hiện các mục tiêu về phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng tỉnh Đăk Nông ngày càng giàu mạnh.

II. MỤC TIÊU CỤ THỂ

1. Hàng năm, 100% cơ sở Hội tổ chức cho 80% trở lên hội viên học tập các nội dung của phong trào thi đua “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình 5 không 3 sạch”. Mỗi năm, mỗi xã xây dựng được ít nhất 5 phụ nữ tiêu biểu trong các phong trào thi đua/học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh để tuyên truyền, biểu dương, nhân rộng

2. Hàng quý tổ chức tuyên truyền, phổ biến chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Mỗi năm các huyện/thị, đơn vị trực thuộc có ít nhất 12 tin, bài về hoạt động Hội, phong trào phụ nữ, điển hình, mô hình được đăng tải trên cổng thông tin điện tử.

3. Mỗi cơ sở Hội mỗi năm giúp thêm được 1-2 hộ gia đình đạt các tiêu chí 5 không, 3 sạch, góp phần thực hiện phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở”. Mỗi cơ sở Hội đăng ký với cấp ủy, chính quyền ít nhất 01 phần việc thiết thực, phù hợp góp phần tham gia xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh. Hàng năm, 90% hội viên, phụ nữ được bồi dưỡng, cung cấp kiến thức, kỹ năng về xây dựng gia đình hạnh phúc bằng nhiều hình thức.

4. Hàng năm, đảm bảo 30% người vay vốn Ngân hàng CSXH được đào tạo nghề; mỗi cơ sở Hội giúp được ít nhất 1 phụ nữ thoát nghèo/năm; đến cuối nhiệm kỳ thành lập và duy trì hoạt động hiệu quả ít nhất được 5 hợp tác xã; tổ chức đào tạo nghề cho 1.200 lao động nữ; mỗi huyện/thị hỗ trợ ít nhất 09 phụ nữ khởi nghiệp hoặc khởi sự kinh doanh.

5. Hàng năm tăng tỷ lệ hội viên từ 1-2%; đảm bảo đến cuối nhiệm kỳ không có cơ sở Hội tập hợp dưới 50% phụ nữ.

6. 100% cán bộ cấp tỉnh, huyện đạt chuẩn chức danh theo quy định; 90% trở lên chủ tịch Hội LHPN cấp cơ sở đạt chuẩn chức danh về trình độ chuyên môn và lý luận chính trị theo quy định. 100% cán bộ Hội được bồi dưỡng nghiệp vụ ít nhất 01 lần/nhiệm kỳ.

7. Hàng năm các cấp Hội giám sát ít nhất 02 chính sách, luật pháp; đóng góp ý kiến, phản biện xã hội ít nhất 01 văn bản dự thảo có liên quan. Hàng năm, mỗi cơ sở Hội phát hiện, bồi dưỡng, giới thiệu với Đảng ít nhất 01 phụ nữ ưu tú để xem xét kết nạp. Thực hiện tốt việc giới thiệu cán bộ nữ.

III. PHONG TRÀO THI ĐUA VÀ CÁC CUỘC VẬN ĐỘNG

Vận động phụ nữ thực hiện phong trào thi đua “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình 5 không 3 sạch” và 2 Cuộc vận động “Rèn luyện 4 phẩm chất tự tin, tự trọng, trung hậu, đảm đang” và “Phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế bền vững”. Tổ chức nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho phụ nữ, thong qua các hình thức giáo dục truyền thống, vận động phụ nữ rèn luyện phẩm chất đạo đức, tích cực tham gia các hoạt động văn hoá văn nghệ, thể dục thể thao....

Thông qua triển khai các nhiệm vụ trọng tâm của Hội, vận động hội viên, phụ nữ học tập và đăng ký, hướng dẫn, triển khai thực hiện có hiệu quả các nội dung của phong trào và cuộc vận động. Hàng năm bình xét, nhân rộng và biểu dương khen thưởng kịp thời những tập thể, cá nhân triển khai và thực hiện tốt. Xây dựng Sổ tay hội viên phụ nữ thực hiện phong trào thi đua và các cuộc vận động.

IV. NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM

Nhiệm vụ 1: Vận động phụ nữ phát huy truyền thống, rèn luyện phẩm chất đạo đức, xây dựng gia đình hạnh phúc

Tổ chức các hoạt động giáo dục truyền thống, giáo dục chính trị tư tưởng. Hướng dẫn và vận động phụ nữ rèn luyện 4 phẩm chất đạo đức “Tự tin, tự trọng, trung hậu, đảm đang” gắn với đẩy mạnh việc học tập, làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Xây dựng được các mô hình chuyển đổi hành vi trong rèn luyện phẩm chất đạo đức. Mỗi hội viên thực hiện ít nhất 1 việc cụ thể “làm theo Bác”(tiết kiệm, rèn luyện các phẩm chất đạo đức).

Chú trọng tuyên truyền, vận động giúp phụ nữ hiểu và thực hiện vai trò của mình, động viên phụ nữ tích cực học tập, nâng cao kiến thức và kỹ năng cần cho lao động và đời sống gia đình; tham gia nghiên cứu, ứng dụng công nghệ, tiến bộ khoa học kỹ thuật trong công tác, sản xuất, kinh doanh. Hỗ trợ phụ nữ tiếp cận thông tin về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội... của đất nước, về bình đẳng giới, quyền và nghĩa vụ của phụ nữ.

Tiếp tục phát huy nâng cao vị thế của phụ nữ trong gia đình và xã hội. Tổ chức các hoạt động để hỗ trợ Phụ nữ nâng cao kỹ năng cuộc sống, giáo dục gia đình, chăm sóc sức khoẻ, sức khoẻ sinh sản và chất lượng dân số. Tiếp tục vận động phụ nữ và tổ chức triển khai các đề án nhằm xây dựng “gia đình 5 không 3 sạch” gắn với chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh trên địa bàn tỉnh.

Giới thiệu và đưa tin những gương điển hình gia đình là phụ nữ đơn thân, phụ nữ khuyết tật, phụ nữ có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn vượt lên xây dựng gia đình hạnh phúc.

Phối hợp chặt chẽ với các ngành chức năng tổ chức tốt công tác tuyên truyền phòng chống HIV/AIDS, phòng chống các tệ nạn xã hội, phòng chống bạo lực gia đình, vệ sinh an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường ...

Vận động phụ nữ phát huy tính tự lực, tinh thần đoàn kết, tương thân, tương ái; đẩy mạnh công tác nhân đạo từ thiện; mái ấm tình thương; hậu phương quân đội hướng về hoạt động chia sẻ, động viên và khuyến khích với những người vợ có chồng, con là bộ đội luôn đi công tác xa nhà.

Nhiệm vụ 2: Vận động, hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế bền vững

Chủ động đăng ký tham mưu, tham gia xây dựng dự án hỗ trợ từ chương trình Vận động viện trợ phi chính phủ nước ngoài và các dự án vừa và nhỏ của nước ngoài trên địa bàn tỉnh Đăk Nông giai đoạn 2016-2020 đối với đào tạo, dạy nghề, tạo việc làm cho phụ nữ; trợ giúp các đối tượng phụ nữ, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn (phụ nữ gia đình chính sách, đơn thân, khuyết tật, trẻ em mồ côi không nơi nương tựa …); các hoạt động hỗ trợ thực hiện bình đẳng giới; hỗ trợ cải thiện đời sống phụ nữ.

Phối hợp với tổ chức tín dụng trong việc nhận ủy thác theo quy định tại Nghị định số 55/2015/NĐ-CP của Chính phủ để giúp chị em tiếp cận vốn để phát triển sản xuất kinh doanh.

Tập trung giúp hộ nghèo do phụ nữ làm chủ tiếp cận về vốn vay ủy thác qua Ngân hàng CSXH, chú trọng hiệu quả sử dụng vốn vay, vươn lên thoát nghèo; vận động phụ nữ giúp nhau, tư vấn cho phụ nữ đi xuất khẩu lao động, tiếp cận các hỗ trợ về phát triển kinh tế (khuyến nông, khuyến ngư...).

Vận động, hỗ trợ phụ nữ thoát nghèo, tham gia chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Đẩy mạnh Cuộc vận động “Phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế bền vững” bằng những việc làm cụ thể phù hợp với nhu cầu của phụ nữ và điều kiện địa phương; đặc biệt ưu tiên hỗ trợ hộ nghèo có địa chỉ. Hàng năm, mỗi cơ sở Hội giúp ít nhất 1 hộ nghèo do phụ nữ làm chủ hộ được thoát nghèo bền vững.

Khuyến khích, hỗ trợ phụ nữ tiếp cận thông tin về hội nhập; nâng cao vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế, làm giàu chính đáng, phát triển đội ngũ doanh nhân (hỗ trợ khởi sự doanh nghiệp, tạo việc làm, tiếp cận vốn, nâng cao kỹ năng nghề...). Hỗ trợ nữ doanh nhân mở rộng thị trường, đối tác; bổ sung các kĩ năng mềm để tích cực phát triển và hội nhập.Duy trì, nhân rộng các mô hình hợp tác xã, tổ hợp tác, tổ liên kết sản xuất.

Tăng cường giáo dục, hướng dẫn, phối hợp kiểm tra giám sát việc thực hiện vệ sinh an toàn thực phẩm (Sản xuất sạch, tiêu dùng sạch, chế biến sạch…). Phát hiện, tố giác các trường hợp vi phạm vệ sinh an toàn thực phẩm.

Đề án phát triển Trung tâm giới thiệu việc làm của phụ nữ theo hướng Trung tâm hỗ trợ phụ nữ phát triển; xã hội hóa các hoạt động dịch vụ; đưa về đơn vị hoạt động sự nghiệp có thu, góp phần đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao và nguồn thu cho Hội, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho các cấp Hội. Chú trọng công tác dạy nghề gắn giới thiệu việc làm; hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp.

Tiếp tục vận động phụ nữ tiết kiệm; phát triển hoạt động Quỹ xã hội theo mô hình tài chính vi mô. Vận động 100% hội viên thực hiện ít nhất 01 hình thức tiết kiệm.

Nhiệm vụ 3: Xây dựng tổ chức Hội vững mạnh, tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, thực hiện giám sát, phản biện xã hội theo quy định

Nâng cao chất lượng hoạt động Hội ở cơ sở, đổi mới nội dung và đa dạng hoá hình thức sinh hoạt; thu hút các tầng lớp phụ nữ tham gia tổ chức Hội, duy trì và phát triển đội ngũ hội viên nòng cốt, tình nguyện viên. Tập trung xây dựng mô hình kết nghĩa giữa chi hội phụ nữ người Kinh với chi hội phụ nữ người dân tộc thiểu số.

Thực hiện tốt chức năng đại diện. Nâng cao chất lượng công tác giám sát, đóng góp ý kiến, phản biện xã hội; tham mưu đề xuất chính sách, luật pháp; kịp thời phát hiện và tích cực tham gia giải quyết một số vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền lợi của phụ nữ, trẻ em. Tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền theo Quyết định số 218-QĐ/TW ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị; chủ động phát hiện, bồi dưỡng, giới thiệu cán bộ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý.

Nâng cao nhận thức, kỹ năng của cán bộ Hội các cấp, đặc biệt cấp cơ sở. Đẩy mạnh thực hiện phương châm “hướng về cơ sở”, bảo đảm cán bộ chuyên trách trực tiếp tham gia điều hành và hướng dẫn sinh hoạt hội viên. 100% Chủ tịch, Phó chủ tịch Hội phụ nữ xã và tương đương trực tiếp triển khai các nội dung công việc của Hội và làm báo cáo viên tại 100% chi hội.

Nâng cao hiệu quả của hoạt động đối ngoại nhân dân. Tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện thỏa thuận ghi nhớ về “Phòng chống buôn bán phụ nữ, trẻ em trên tuyến biên giới” giai đoạn 2015 - 2020 giữa Hội LHPN tỉnh Đăk Nông (Việt Nam) và Sở Công tác Phụ nữ tỉnh Mondulkiri (Campuchia); tích cực phối hợp với các cơ quan chức năng bảo vệ quyền và nhân phẩm của phụ nữ trong các giao dịch, quan hệ có yếu tố nước ngoài; tổ chức các hoạt động giao lưu kết nghĩa với Hội LHPN các tỉnh bạn để học tập kinh nghiệm trong công tác lãnh chỉ đạo phong trào.

V. CÁC GIẢI PHÁP

1. Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động

Phát huy vai trò đại diện của tổ chức Hội trong tham gia quản lý Nhà nước (Quốc hội, HĐND, các ban chỉ đạo... ). Tăng cường các hoạt động chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của hội viên, phụ nữ.

Thay đổi phương thức tiếp cận để giải quyết các vấn đề của phụ nữ; tuyên truyền, vận động phụ nữ hiểu được giá trị, năng lực của bản thân, từ đó chủ động giải quyết các khó khăn của chính mình. Lấy phụ nữ làm trung tâm của mọi hoạt động Hội. Tạo điều kiện cho phụ nữ tham gia vào quá trình xây dựng kế hoạch và tổ chức triển khai thực hiện các hoạt động có liên quan đến họ.

Làm tốt việc quản lý và điều phối các nguồn lực để tổ chức hoạt động đồng bộ, hiệu quả, dứt điểm; tập trung nguồn lực cho những nơi khó khăn, các đối tượng đặc thù (nữ trí thức, nữ doanh nhân, nữ vị thành niên, phụ nữ dân tộc, phụ nữ tôn giáo, phụ nữ yếu thế...); hỗ trợ, hướng dẫn cho những địa bàn có điều kiện thuận lợi hoạt động.

Nâng cao nhận thức của toàn xã hội về trách nhiệm đối với công tác phụ nữ và bình đẳng giới. Vận động xã hội chung tay giải quyết các vấn đề của phụ nữ; thu hút, sự tham gia của nam giới trong xây dựng gia đình hạnh phúc và thực hiện bình đẳng giới.

Cải tiến công tác chỉ đạo trong hệ thống Hội: Tiếp tục phân cấp và phân định rõ nhiệm vụ của từng cấp Hội; tăng quyền chủ động cho từng cấp trong xác định hoạt động, nhiệm vụ ưu tiên, đánh giá trên cơ sở kết quả, hiệu quả công việc.

Cải tiến công tác thi đua, khen thưởng; phát hiện, tuyên truyền, nhân rộng các mô hình, điển hình để thi đua thực sự trở thành động lực của phong trào phụ nữ.; đa dạng hoá các hình thức thi đua; cụ thể hoá nội dung thi đua gắn với nhiệm vụ công tác Hội. xây dựng tiêu chí đánh giá kết quả hoạt động Hội mang tính định lượng; có các hình thức khen thưởng kịp thời, phù hợp với đối tượng; tôn vinh phụ nữ.

Xây dựng tác phong làm việc khoa học, môi trường làm việc văn hoá; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động quản lý, điều hành ở tất cả các cấp Hội.

2. Đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục cả về nội dung và phương pháp. Tập trung tuyên truyền miệng tại các buổi sinh hoạt Hội

Xây dựng và thực hiện chiến lược truyền thông của Hội; mở rộng hoạt động phối hợp với các cơ quan truyền thông đại chúng; tăng cường sử dụng truyền thông đa phương tiện, tổ chức hình thức tuyên truyền phù hợp với từng đối tượng; chú trọng tổ chức sự kiện, quảng bá hình ảnh của Hội và người phụ nữ.

Nâng cao chất lượng hoạt động và sự phối hợp giữa các đơn vị truyền thông của Hội và giữa các cấp Hội. Tập trung, thống nhất nội dung tuyên truyền trong hệ thống Hội đối với một số chủ đề trọng tâm.

Củng cố, nâng cao chất lượng đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên; sử dụng hiệu quả cộng tác viên, tình nguyện viên từ các ngành, các lĩnh vực; phát triển các kênh nắm bắt và phản ánh tư tưởng của hội viên, phụ nữ, dư luận xã hội.

Vận động phụ nữ đọc sách, báo thường xuyên. Xây dựng và thực hiện đề án “Tủ sách phụ nữ làm theo Bác”; đa dạng hoá tài liệu và các sản phẩm truyền thông phù hợp với các nhóm đối tượng hội viên, phụ nữ.

3. Nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để phục vụ công tác chỉ đạo; tham mưu, đề xuất chính sách, phản biện xã hội

Tổ chức đánh giá thực trạng các vấn đề liên quan đến việc thực hiện các phong trào và nhiệm vụ trọng tâm của hội để để xuất các giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động của các cấp Hội

Nghiên cứu, tham mưu đề xuất các chính sách cho phụ nữ vùng nông thôn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, phụ nữ khuyết tật, phụ nữ đơn thân nghèo; các chi hội khó khăn; kinh phí hoạt động cho cơ sở.

Đánh giá, nghiên cứu, nhân rộng các mô hình hiệu quả, cách làm hay liên quan đến phụ nữ và công tác Hội.

Thiết lập hệ thống thông tin dữ liệu về phụ nữ, cán bộ nữ, bình đẳng giới, công tác phụ nữ và hoạt động Hội.

4Phát huy nội lực, thế mạnh của hội viên, phụ nữ và tăng cường khai thác các nguồn lực xã hội

Đẩy mạnh thực hiện Cuộc vận động “5 không, 3 sạch” theo hướng chiều sâu khẳng định vai trò của phụ nữ trong xây dựng nông thôn mới. Vận động, hỗ trợ phụ nữ phát huy truyền thống, các phẩm chất đạo đức, thế mạnh và năng lực để giải quyết các vấn đề của bản thân, gia đình và địa phương; tiếp tục vận động chị em thực hành tiết kiệm, chia sẻ kinh nghiệm, giúp nhau làm ăn, liên kết sản xuất; nhân rộng các mô hình “kết nghĩa”, với các chi hội ở vùng khó khăn. Củng cố, duy trì và nhân rộng các mô hình Địa chỉ tin cậy tại cộng đồng, các loại hình câu lạc bộ (gia đình hạnh phúc, gia đình 5 không, 3 sạch, giáo dục người thân không phạm tội...); Xây dựng, tổ chức các dịch vụ xã hội, dịch vụ gia đình cho phụ nữ (tư vấn, dạy nghề, nhà tạm lánh,...).

Tổ chức Ngày phụ nữ sáng tạo; đẩy mạnh các hoạt động hưởng ứng cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”.

Nhân rộng các tổ tư vấn cộng đồng, phát huy vai trò của các tình nguyện viên, đẩy mạnh các hoạt động tình nguyện, từ thiện nhân đạo; các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục, thể thao. Bồi dưỡng các kỹ năng sản xuất và quản lý cuộc sống gia đình cho phụ nữ.

Đa dạng hoá các nguồn lực xã hội cho công tác phụ nữ và bình đẳng giới; tiếp tục phát huy các chương trình uỷ thác; Quỹ xã hội và tiết kiệm của Hội.

Tổ chức các dịch vụ có thu từ Trung tâm giới thiệu việc làm phụ nữ; khẳng định vai trò, vị thế của phụ nữ.

5. Nâng cao chất lượng cán bộ Hội các cấp

Với phương châm Mỗi cán bộ Hội tích cực đổi mới tư duy để có hành động tốt phục vụ hội viên, phụ nữ”; xác định rõ trách nhiệm của từng cán bộ công chức, cán bộ Hội các cấp luôn suy nghĩ, tìm tòi, từ tham mưu đề xuất, đến lãnh đạo triển khai thực hiện; nghiên cứu kỹ các văn bản chỉ đạo; các đặc thù của địa phương để cụ thể hóa xây dựng nghị quyết, chương trình sát tình hình thực tế; duy trì sinh hoạt nền nếp, tranh thủ ý kiến tập thể; tổ chức kiểm tra, đánh giá; chú trọng biểu dương khen thưởng. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong xử lý công việc, giảm giấy tờ hành chính.

Xây dựng tổ chức Hội vững mạnh, mở rộng tính liên hiệp, đa dạng hoá các hình thức tập hợp các tầng lớp phụ nữ, nâng cao chất lượng sinh hoạt Hội, quan tâm đến lợi ích chính đáng của hội viên, phụ nữ.

Căn cứ quy định chung về công tác cán bộ; sắp xếp, bồi bưỡng, đào tạo cán bộ đảm bảo phẩm chất đạo đức, năng lực công tác, đáp ứng tốt công việc được giao; có cơ chế, chính sách động viên, khuyến khích cán bộ.Trên cơ sở đó, cá nhân cán bộ hiểu rõ sứ mệnh của tổ chức Hội, xác định trách nhiệm của bản thân, đơn vị đối với công tác vận động, hỗ trợ phụ nữ.

Tăng cường đào tạo thực tế (hướng dẫn, kèm cặp...). tăng thời gian và có quy định về nhiệm vụ khi đi cơ sở (cán bộ tỉnh dành ít nhất 30% thời gian đi hỗ trợ, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát hoạt động tại cơ sở. Cán bộ cấp Huyện dành ít nhất 50% thời gian trực tiếp về xã hỗ trợ cán bộ Hội cơ sở; Cán bộ cơ sở dành ít nhất 70% thời gian dự sinh hoạt hội viên và triển khai các hoạt động tại chi hội).

Tổ chức các cuộc thi cán bộ Hội giỏi, bình chọn cán bộ Hội xuất sắc; các diễn đàn chia sẻ kinh nghiệm công tác Hội. Tăng cường kết nghĩa, giao lưu, hỗ trợ kỹ năng giữa các chi hội, cơ sở Hội, đặc biệt ở địa bàn dân tộc, tôn giáo.

Với phương châm hành động Đoàn kết - Sáng tạo - Bình đẳng - Phát triển, Đại hội Đại biểu phụ nữ tỉnh Đăk Nông khóa IIIquyết tâm phát huy tinh thần truyền thống yêu nước, chăm lo xây dựng gia đình hạnh phúc, góp sức cùng Đảng bộ, toàn dân, toàn quân thắt chặt khối đại đoàn kết toàn dân tộc, vượt qua khó khăn, thách thức, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, Nghị quyết Đại hội tỉnh Đảng bộ lần thứ XI, Nghị quyết Đại hội Phụ nữ các cấp, góp phần xây dựng tỉnh Đắk Nông giàu đẹp.

 

TM. BAN CHẤP HÀNH

 

 

 

 

Lần cập nhật cuối lúc Thứ hai, 19 Tháng 12 2016 10:02
Bài viết liên quan
Bản đồ